BỐ ƠI, BỐ Ở ĐÂU?
NHÀ GIÁO – LIỆT SĨ NGUYỄN XUÂN HƯƠNG - (Ghi theo lời kể của nhà giáo Nguyễn Văn Dũng, Hiệu trưởng trường THPT Hà Huy Tập, con trai của nhà giáo – liệt sĩ Nguyễn Xuân Hương)
– Ông ơi, ông ở đâu?
– Em ơi, em ở đâu?
– Bố ơi, bố ở đâu?
Những lời thảng thốt, đau đớn đó, nhiều lần tôi từng nghe từ tiếng nấc nghẹn ngào của mẹ tôi, của bác và các o tôi, cũng như của mấy chị tôi trong các kì giỗ bố. Bố tôi là liệt sĩ Nguyễn Xuân Hương – người đã vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giành độc lập dân tộc, tính đến nay đã tròn 56 năm. Nếu còn sống để trở về sau chiến tranh, giờ bố tôi đã 86 tuổi. Vậy là bố ngã xuống ở tuổi 30 – độ tuổi rất đẹp, tràn đầy ước vọng về tương lai của một đời người.
Ông bà nội tôi vốn là nông dân, sinh cơ lập nghiệp ở xóm Quý, Liên Thanh, Thạch Liên, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. Các cụ sinh được 9 người con, 4 trai, 5 gái, trong đó, có một bác và một o mất từ khi chưa lập gia đình. Bố tôi là con út. Thời ấy, với một gia đình nông dân nghèo như ông bà tôi, cái ăn cái mặc còn chưa lo nổi, thì con cái được thoát nạn mù chữ đã là may lắm. Thế nhưng, trong hoàn cảnh khó khăn đó, bố tôi vẫn được ông bà cho ăn học đến nơi đến chốn nhất nhà. Sau khi xong bậc phổ thông, bố được học lên, tốt nghiệp một trường sư phạm, và trở thành nhà giáo, công tác ngay tại tỉnh nhà. Ở một vùng thuần nông như xã tôi thời ấy, vị trí công tác của bố tôi là điều mơ ước của bao người.
Cơ trời đã cho bố gặp được mẹ, một cô gái Thạch Vĩnh (Thạch Hà). Hai người bén duyên, nên vợ nên vợ chồng, về chung một nhà vào năm 1956 (thời điểm bố tôi dạy học tại xã Thạch Đài, cách quê mẹ chừng vài ba cây số).
Căn nhà tranh vách đất nho nhỏ – mái ấm của một gia đình hạnh phúc – chứng kiến 5 chị em chúng tôi lần lượt ra đời: chị Nguyễn Thị Xuân (1957); chị Nguyễn Thị Xanh (1960); chị Nguyễn Thị Tuyết (1963); tôi – Nguyễn Văn Dũng (1966) và em út là Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1968.
Năm 1968, cuộc chiến tranh bước vào giai đoạn ác liệt nhất: đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc; sau cuộc tổng tấn công Mậu Thân, mặt trận miền Nam đang tạo nên bước ngoặt mang tính quyết định. Theo lệnh tổng động viên, bố tôi từ giã mái trường cấp 2 Thạch Đài, chia tay các đồng nghiệp và học sinh thân yêu, khoác ba lô lên đường ra trận. Sau thời gian huấn luyện cấp tốc, bố tôi được biên chế vào Sư đoàn 968, đơn vị F31, có nhiệm vụ chiến đấu ở chiến trường Lào. Trong lần hành quân sang nước bạn, bố xin tạt qua nhà chỉ mấy phút ngắn ngủi, gặp bà nội (bấy giờ ông nội đã mất), ôm mấy đứa con vào lòng căn dặn vài câu, cầm vội bi đông nước mẹ trao, tạm biệt mẹ con rồi chạy vụt theo con đường trực chỉ hướng tây để bắt kịp đơn vị. Không ngờ, đó là lần cuối cùng bố có mặt trong ngôi nhà thân thương của mình.
Lúc bố rời nhà, mẹ đã mang thai em Hùng được mấy tháng. Kể từ khi bố giã biệt mẹ con, mọi tin tức về bố trở nên cực kì ít ỏi. Cho đến một hôm, gia đình chúng tôi nhận cái tin sét đánh khi ông cán bộ xã mang đến một tờ giấy. Đó là giấy báo tử! Tờ giấy cho biết bố tôi hi sinh vào ngày 25 tháng 11 năm 1969. Không thể nói hết bầu không khí tang thương trong gia đình chúng tôi khi nhận tin kinh khủng đó. Chị cả lúc ấy 11 tuổi, tôi mới chưa đầy 3 tuổi, còn đứa em út thì chưa tròn năm. Nó là đứa duy nhất trong nhà không một lần được nhìn thấy mặt bố.
Không còn bố, một mình mẹ tảo tần nuôi con. Có thể nói, với gánh nặng ấy của một gia đình, lại trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, việc sinh tồn bình thường đã khó, nói gì đến việc học hành tử tế của con cái như ước nguyện của bố mà mẹ nhiều lần nhắc lại với chúng tôi. Vậy mà mẹ tôi đã làm được điều thật phi thường: sớm nắng hay chiều mưa, ngày đông cũng như tháng hạ, mọi việc khó khăn, nặng nhọc mẹ đều gánh vác chu tất, miễn sao việc đèn sách của con cái không thua kém bạn bè. Kết quả, cả 5 chị em chúng tôi đều tốt nghiệp cấp III (phổ thông trung học bây giờ), phần lớn vào các trường chuyên nghiệp, ra trường có nghề nghiệp ổn định. Chị Xuân học xong trường Y, về làm việc ở Bệnh viện đa khoa Hà Tĩnh; chị Xanh và tôi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Vinh (nay là Đại học Vinh), được phân công về giảng dạy tại trường THPT Lý Tự Trọng – nơi chúng tôi đã gắn bó ba năm thuở học trò; chị Tuyết sang lao động bên Liên Xô theo diện ưu tiên con em gia đình có công với cách mạng; chú Hùng làm việc trong ngành Thanh tra giao thông đường sông. Rốt cuộc, nhà cũng có hai đứa con nối nghiệp bố, được vinh dự làm việc trong ngành giáo dục trên chính mảnh đất quê hương mình.
Cho đến nay, câu chuyện về những ngày tháng tuổi trẻ cũng như thời gian công tác của bố, hầu như mấy chị em chúng tôi không biết được nhiều. Thậm chí, bố nằm xuống mà chúng tôi không có lấy một bức ảnh, dù nhỏ, dù mờ để đặt lên bàn thờ. Từ khi bố hi sinh, mẹ tôi trở nên rất ít lời. Bà suy nghĩ, làm lụng nhiều hơn nói năng. Trong 4 bà o (chị của bố), tôi thấy o Cúc là người nhớ kĩ nhất, và cũng thường kể nhiều chuyện nhất về em trai mình trong những lần giỗ chạp. Nay thì o đã về với tổ tiên, mang theo bao nhiêu “tư liệu” quý giá về bố, mà tiếc thay, khi o còn sống, chúng tôi đã không ghi lại được. Trong kí ức của mẹ (năm nay vào tuổi 86), của 3 chị, hình bóng, ấn tượng về bố tuy không thật rõ rệt, nhưng cũng đủ để hình dung về một dáng hình, một tính cách.
Mẹ trầm ngâm nhớ lại: bố dong dỏng cao, da trắng, khá đẹp trai, tính cởi mở, hiền lành, phúc hậu. Những lúc bố ở trường về, các chị đã biết cảm nhận tình cảm đặc biệt mà bố dành cho con gái, thể hiện qua cử chỉ âu yếm, qua cách “diện” cho con: mái tóc để dài, không cho mẹ cắt ngắn, quần áo đồng bộ xinh xắn, cổ và ống tay áo viền màu, những đôi guốc sơn xanh, đỏ…
Gia đình nào có người hi sinh trong chiến tranh thì cũng đều trải qua mất mát lớn và hết sức đau buồn. Nhưng có lẽ nỗi đau sẽ vơi đi phần nào nếu thấy được phần mộ của thân nhân mình. Chúng tôi thì tuyệt nhiên không biết được nơi bố nằm lại để đến thăm, nhang khói, và nếu có điều kiện thì xin đưa hài cốt bố về an táng tại nghĩa trang của dòng họ.
Bố mất lúc chúng tôi còn nhỏ quá. Sau chiến tranh, tâm nguyện duy nhất của mẹ là phải làm sao tìm được mộ bố. Khi lớn lên một chút, mấy chị em mới biết thế nào là sự trống vắng khi không còn bố, và ao ước tìm mộ bố cũng trở thành một niềm khắc khoải khôn nguôi. Nhiều lần, đặc biệt là trong những dịp giỗ bố, bao nhiêu phương án tìm kiếm đã được mọi người tính đến.
Trước năm 1982, các chị tôi đã bắt đầu công việc tìm kiếm mộ bố ở các nghĩa trang có quy tập hài cốt liệt sĩ từ chiến trường Lào về, như nghĩa trang Nầm (Hương Sơn, Hà Tĩnh), nghĩa trang Anh Sơn (Nghệ An),...
Hè năm 1982, lúc còn học lớp 8 (lớp 10 bây giờ), tôi đã bắt đầu ý thức được chữ “hiếu” (đối với bố đã khuất và đối với tâm nguyện của mẹ). Hành trình đi tìm mộ bố của tôi cũng khởi đầu từ đây. Cùng với anh Thịnh (anh rể, chồng chị Xuân), chúng tôi bắt xe vào Quảng Trị, xuống xe ở đường quốc lộ 1A, tiếp tục đi bộ hơn 20 cây số lên nghĩa trang Trường Sơn thuộc tỉnh Quảng Trị. Ở đây, chúng tôi tìm thấy một ngôi mộ có khắc tên liệt sĩ trùng tên bố, chỉ khác là quê xã Thạch Sơn, huyện Thạch Hà. Đến Sở Lao động thương binh xã hội của tỉnh Quảng Trị tìm hiểu thêm thì được biết liệt sĩ đó thuộc đơn vị 559, trong khi đơn vị của bố là 968.
Không biết bao nhiêu lần chị Xuân và tôi đã tìm đến những đầu mối tin tức về liệt sĩ như Phòng Lao động thương binh xã hội huyện Thạch Hà, Huyện đội Thạch Hà, Sở Lao động thương binh xã hội của tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh Quảng Trị; các phòng ban của Quân khu Bốn; Sư đoàn 968, Ban quản lý các nghĩa trang – nơi quy tập hài cốt các liệt sĩ từ nhiều chiến trường… Nhưng tất cả vẫn bặt vô âm tín, không khác gì đáy bể mò kim.
Chị cả của chúng tôi rất muốn tìm kiếm thêm thông tin về mộ bố bằng con đường tâm linh. Tôi thì rất chú trọng việc tìm kiếm trên thực địa, dựa vào các nguồn tin đáng tin cậy. Tình cờ, một lần đến thăm bệnh nhân ở Bệnh viên Đa khoa Hà Tĩnh, chúng tôi gặp một cựu chiến binh ở đơn vị 968. Bác ấy mách với chúng tôi rằng, có bác Ngọc ở Diễn Châu là đồng đội của bố. Thế là hai chị em chúng tôi lập tức bắt xe ra Diễn Châu, tìm được đến nhà bác Ngọc. Thật mừng khi bác xác nhận với chúng tôi rằng, có thầy Hương là đồng đội, hi sinh trong một trận đánh tại bản Xoong Hoỏng, huyện Mường xôn tỉnh Xavanakhet của Lào. Qua bác, chúng tôi còn liên hệ và gặp được thêm một số đồng đội của bố như bác Khang, bác Ngự ở Anh Sơn; bác Vân ở Đức Thọ, bác Khánh ở Thạch Long, chú Liệu ở Trường Lộc,… Qua tiếp xúc với các bác, các chú, chúng tôi càng xác định chắc chắn được bản Xoong Hoỏng là nơi bố ngã xuống và biết đích xác đó là ngày 25 tháng 12 năm 1969, tức là có khác về tháng so với giấy báo tử.
Từ các thông tin đã thu thập được, tôi quyết định sang Lào để tìm mộ bố.
Lần thứ nhất, tôi vào làm việc với đội quy tập hài cốt liệt sĩ Quảng Trị, xin được cùng đi. Mặc dù ban đầu có khó khăn, nhưng sau đó được chấp nhận. Lần đi này hầu như không đạt được kết quả gì.
Lần thứ hai, căn cứ vào thông tin mà các bác, các chú cung cấp, tôi đã tìm được đến bản Xoong Hoỏng. Tại vị trí cụ thể được chỉ dẫn, chúng tôi thấy có ba ngôi mộ giữa rừng đã được cất bốc. Theo lời trưởng bản, bộ đội Việt Nam đã cất bốc ba ngôi mộ ấy.
Và chúng tôi còn sang Lào tiếp lần thứ ba.
Như người ta thường nói: “Có bệnh vái tứ phương” – trong việc tìm hài cốt liệt sĩ, nguồn tin từ các nhà ngoại cảm, từ sự chỉ dẫn có tính chất tâm linh cũng là điều chị cả chúng tôi luôn chú ý. Hễ nghe tin nơi nào “linh” là chị tôi muốn tìm đến, dù xa xôi cách trở thế nào. Chị Xuân và tôi đã tiếp cận những nhà ngoại cảm nhiều người biết như cô Phương (Thanh Hóa), cô Bích Hằng, cô Nguyện, ông Nguyễn Văn Phụng (Hà Nội), ông Nguyễn Văn Liên (Hải Dương),… Tuy nhiên, không phải cứ “cầu là được, ước là thấy”. Những thông tin mà các nhà ngoại cảm đưa ra cũng chỉ chính xác ở một tỉ lệ nào đó mà thôi. Rốt cuộc, tất cả vẫn chìm trong vô vọng.
Vào năm 2012, ở xã Nam Cát, huyện Nam Đàn (Nghệ An) nổi lên một trung tâm hoạt động tâm linh, thu hút đông đảo người tứ phương, chủ yếu đến với mục đích tìm hài cốt liệt sĩ. Tất cả chị em trong gia đình chúng tôi cùng với một số con em trong dòng họ đã lên trung tâm này, xin lập bàn thờ, ngồi cầu vong. Chị em thay nhau ngồi, vì bản thân từng người còn làm việc nhà nước. Ngồi hết một tháng thì được chỉ dẫn sang Lào. Khi đã xác định vị trí sẽ đến, chúng tôi về gặp các bác các chú đồng đội của bố, nhờ giúp đỡ để công việc có hiệu quả. Thấy chúng tôi tha thiết với việc tìm kiếm mộ bố, chú Khang và chú Vân quyết định cùng đi để trợ giúp. Sau khi hoàn thành hộ chiếu và thủ tục xuất cảnh (cũng khá phức tạp), chúng tôi đã thuê một chiếc xe ô tô chở mấy chị em và hai chú, thuê thêm một người giỏi tiếng Lào để phiên dịch, mang theo lương thực, thực phầm lên đường. Sang đến bản Xoong Hoỏng, chúng tôi nhờ trưởng bản đưa đến vị trí ba ngôi mộ đã được cất bốc. Hai chú xác định: trong ba ngôi mộ đó, đúng là có mộ bố tôi. Khi đào lại, chúng tôi thấy có tăng, bạt, dây điện thông tin,… vì vậy, càng khẳng định sự chính xác. Chúng tôi lập bàn thờ giữa rừng Lào để cầu. Công việc ấy diễn ra cũng vừa tròn một tháng.
Từ Lào, chúng tôi lại về nhà nghỉ 27/7 tại Quảng Trị, ngồi thêm 13 ngày nữa, sau đó, lên Nghĩa trang đường 9 (theo niềm tin ở sự chỉ dẫn của yếu tố tâm linh). Kết quả, chúng tôi dừng lại nơi ngôi mộ có dòng chữ trên bia: “Liệt sĩ chưa xác định được tên”. Ngôi mộ ấy được đánh số 73. Nhớ lại, tính từ ngày chúng tôi bắt đầu lên trung tâm ở Nam Cát cho đến khi kết thúc việc tìm kiếm tại Nghĩa trang đường 9, tổng cộng là 73 ngày. Tại thời điểm đó, nếu còn sống, bố tôi cũng tròn 73 tuổi. Thật kì lạ! Không biết đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là một điều tất yếu?
Từ 2013 đến nay, mỗi dịp kỉ niệm ngày Thương binh liệt sĩ (27/7) hoặc cuối mỗi năm âm lịch, chị em chúng tôi đều vào thắp nhang và khấn với bố tại ngôi mộ số 73 ở Nghĩa trang Đường 9. Mỗi lần như thế, nguyện ước, tâm tình của chúng tôi luôn hướng về bố một cách thành kính, thiêng liêng. Có người bảo tôi: Sao không xin thử AND để biết đích xác có đúng là mộ bố không. Nếu đúng, khi có điều kiện thì xin đưa bố về bên ông bà nội, bên các bác, các anh. Không phải tôi không nghĩ đến điều đó. Tuy nhiên, tôi không muốn hoài nghi dẫn tới làm chuyện bất kính đối với hài cốt của liệt sĩ đang nằm trong ngôi mộ này, dù đó thực sự là bố tôi hay là một liệt sĩ nào khác. Mỗi lần đứng trước ngôi mộ, tôi luôn khấn nguyện rằng: “Bố ơi, bố sống khôn chết thiêng, nếu bố đang yên nghỉ ở đây như chúng con được chỉ báo, thì đó là điều tốt đẹp, mẹ và chúng con phần nào yên lòng. Nhưng nếu đây là đồng đội của bố, thì cũng xin bố thấu hiểu và thứ tha cho những gì chúng con đã làm, vì chúng con luôn thành tâm với bố”.
Là người trần mắt thịt, tôi không thể biết đích xác mọi điều. Vậy nên, câu hỏi “Bố ơi, bố ở đâu?” vẫn hằng nhói lên trong sâu thẳm lòng tôi mỗi khi nhớ đến bố. Và, câu trả lời chính xác chỉ có thể từ linh hồn của bố tôi mà thôi.
Cho đến thời điểm này, tôi vẫn luôn băn khoăn, day dứt một điều: tại sao sau khi hi sinh, bố tôi cùng hai liệt sĩ đã được đồng đội chôn cất tử tế; những đồng đội đó nhớ rất chính xác vị trí các ngôi mộ, lại còn đích thân đến để xác nhận, thế thì trong quá trình cất bốc đưa về Việt Nam, ba ngôi mộ ấy đã được cải táng ở nghĩa trang nào? Ở vị trí cụ thể nào trong nghĩa trang đó? Có hồ sơ nào còn được lưu giữ về ba liệt sĩ có mộ đã cất bốc? Tôi từng nêu băn khoăn này với Ban quản lí Nghĩa trang Đường 9, nhưng vẫn không nhận được câu trả lời thỏa đáng Tôi rất mong các cấp hữu quan giúp xác nhận, cung cấp thông tin cần thiết mà tôi đã nêu trên để việc tìm kiếm tiếp theo của chúng tôi có kết quả.
26/4/2025
(Anh Đăng ghi)